Trứng là một trong những thực phẩm cung cấp nhiều chất đạm có giá trị sinh học cao, dễ hấp thu (tỷ lệ hấp thu chất đạm của trứng là 100%, tương đương với đạm trong sữa nếu chế biến đúng). Ngoài ra, trong lòng đỏ trứng còn cung cấp nhiều chất béo, các vitamin và khoáng chất rất cần thiết cho sự phát triển của trẻ như: sắt, vitamin A, kẽm….Thông thường 1 quả trứng gà ta nặng khoảng 40g (cả vỏ), 1 quả trứng vịt: 70g (cả vỏ), nếu bỏ vỏ thì 100g trứng gà tương đương 3 quả, còn 100g trứng vịt tương đương 1,5 quả.
Như vậy, giá trị dinh dưỡng của trứng gà và vịt không khác nhau nhiều lắm, nhưng thành phần các vi chất dinh dưỡng thì trứng gà tốt hơn trứng vịt. Hàm lượng kẽm, vitamin A của trứng gà cao hơn trứng vịt, trong trứng gà còn có cả vitamin D, một loại vitamin có rất ít trong thực phẩm. Hàm lượng chất đạm của trứng gà cũng cao hơn trứng vịt, chất béo trong trứng gà thấp hơn nên ít gây đầy bụng khó tiêu. Gà thường đẻ trứng trên ổ cao, vịt thường đẻ trứng nơi thấp do vậy trứng gà ít bị nhiễm bẩn hơn. Như vậy nên cho trẻ ăn trứng gà thì tốt hơn. Mặc dầu trứng là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, song cũng chỉ cho bé ăn lượng vừa phải không nên cho ăn quá nhiều, vì hàm lượng chất béo trong trứng cao làm bé dễ bị đầy bụng, khó tiêu rối loạn tiêu hóa. Tùy theo tháng tuổi mà cho ăn số lượng khác nhau:
- Trẻ 6 – 7 tháng tuổi: chỉ nên ăn 1/2 lòng đỏ trứng gà/bữa, ăn 2 – 3 lần/tuần
- Trẻ 8 – 12 tháng tuổi: ăn 1 lòng đỏ/bữa, ăn 3 – 4 bữa trong 1 tuần.
- Trẻ 1 – 2 tuổi: nên ăn 4 – 5 quả trứng/tuần, ăn cả lòng trắng.
- Trẻ từ 2 tuổi trở lên: nếu bé thích trứng có thể cho ăn 1 quả/ngày.
Cách chế biến trứng tốt nhất: Không nên ăn trứng gà sống hay hòa tan trứng sống trong cháo nóng, xúp nóng mà nên luộc hoặc nấu chín để phòng nhiễm khuẩn và đầy bụng vì đường sinh dục của gà có rất nhiều vi khuẩn và trong lòng trắng trứng sống có chất antibiotin gây đầy bụng ảnh hưởng đến sức khỏe. Trứng gà rán hoặc ốp la mà dùng lửa to thì dễ khiến bên ngoài cháy mà bên trong chưa chín. Lúc đó, lòng trắng trứng bị cháy sẽ khó hấp thu, lại tiêu hủy các vitamin tan trong nước như vitamin B1, B2, còn lòng đỏ chưa được tiệt khuẩn. Vì vậy, khi rán hoặc ốp trứng, nên để lửa nhỏ, thời gian lâu một chút cho lòng đỏ vừa chín là tốt. Nếu ăn trứng gà sống, tỷ lệ hấp thu và tiêu hóa chỉ được 40%, trứng luộc là 100%, trứng rán chín tới 98,5%, trứng rán già 81%, trứng ốp la 85%, trứng chưng 87,5%. Chế biến trứng cho trẻ tùy theo tháng tuổi:
- Trẻ 6 – 12 tháng: có thể ăn bột trứng, trứng hấp
- Trẻ 1 – 2 tuổi: có thể ăn cháo trứng, trứng luộc vừa chín tới, trứng kho.
- Trẻ từ 2 tuổi trở lên: có thể ăn cháo trứng, trứng luộc, trứng rán đúc thịt, trứng sốt cà chua ăn với cơm.
Trong bữa ăn không nên chỉ cho trẻ ăn trứng, nên phối hợp với các loại thực phẩm khác nữa sẽ giúp trẻ có cảm giác ăn ngon miệng, đồng thời bổ sung các chất dinh dưỡng cần thiết cho trẻ.
Nguồn: Viện Dinh dưỡng Quốc gia